DR - Bìa hai tác phẩm của Phan Khôi
Ảnh hưởng Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh Người đầu tiên Phan Khôi chịu ảnh hưởng trong nghề báo là Nguyễn Văn Vĩnh. Bởi lối viết vừađàm vừa luận của Nguyễn Văn Vĩnh trên Đăng Cổ Tùng Báo (1908) sau này sống lại trong lốihài đàm của Phan Khôi. Hai nhân vật mà Phan Khôi đặc biệt kính trọng trong địa hạt văn học và thương mại là Nguyễn Văn Vĩnh và Bạch Thái Bưởi. Mục Nam âm thi thoại trên Nam Phong mở đầu văn nghiệp của Phan Khôi (2/1918).Nhưng Phạm Quỳnh mới thật là người "tiên phong" và khuyến khích Phan Khôi vào con đường này. Lời mở đầu Nam âm thi thoại ít nhiều ảnh hưởng bài Thơ Ta thơ Tây của Phạm Quỳnh [viết năm 1917; có lẽ là bài lý thuyết thơ sớm nhất của Việt Nam. 1922, Phạm Quỳnh đọc bài diễn văn La poésie annnamite (Thi ca Việt Nam) tại Paris, một tác phẩm giá trị khác về bình thơ].Nam Âm thi thoại phê bình thơ theo lối Tầu, nhưng đã có những nhận thức mới lạ về ngữ học, đặc cách Phan Khôi: trực bút, cô đọng, dùng chữ độc sáng, bất ngờ. Khi Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến viết thay, mục này không còn thú vị nữa. Phạm Quỳnh bình văn từ 1917, nhưng cách phê bình của ông (lược truyện và nói cái hay và cái dở) nay đã lỗi thời; ngược lại, tiểu luận, triết học, ngữ học, biên khảo và dịch thuật của Phạm Quỳnh có giá trị bất biến. Phan Khôi bình văn sau Phạm Quỳnh. Bài Cái cười của con rồng cháu tiên trên PNTV số 84 (28/5/1931) là một sáng tạo độc đáo: Đọc Cay đắng mùi đời của Hồ Biểu Chánh, ông nhận thức ý nghiã cái cười của người Việt: tự nhận mình là con Rồng cháu Tiên, nhưng vô ý thức, gì cũng cười, cười cả sự tật nguyền của người khác, "cái cười vô nghiã lý, vô ý thức, cái cười vừa ngu dại, vừa độc ác" ấy "đã thấm vào máu dân tộc nầy". Đây là bài phê bình xã hội học sớm nhất của văn chương Việt Nam. Bài này đã làm Tản Đà nổi giận, viết loạt bài Bài trừ cái nạn Phan Khôi ở Nam Kỳ [An Nam tạp chí, Hà Nội từ số 26 (1/1932)] buộc tội Phan phỉ báng dân tộc và đòi "giết" Phan trên văn đàn. Phan Khôi đi trước thời đại là như vậy. Dù chỉ cộng tác với Nam Phong hơn một năm (2/1918-5/1919), nhưng ảnh hưởng Phạm Quỳnh trên Phan Khôi khá rõ. Sau này, Phan tiếc đã bỏ Nam Phong (có lẽ vì hai cá tính độc đáo không thể ngồi chung, Phạm Quỳnh nhỏ hơn Phan Khôi năm tuổi, mà làm xếp, không dễ). Dù hai người có tranh luận, nhưng vẫn tương kính nhau. Phan Khôi đã học được tinh thần phê bình, óc lý luận của Phạm Quỳnh. Phan Khôi, một đời tự học Phan Khôi học chữ Hán với ông nội, cha và 10 năm với Trần Quý Cáp, rồi tự học quốc ngữ và tiếng Pháp từ 1906; dịch Kinh Thánh trong 5 năm (1920-1925): những "trường rèn luyện" ấy, đã tạo nên Phan Khôi, nhà báo và học giả uyên thâm hai nền văn hoá Đông Tây. Năm 10936, Phan Thị Nga, viết về việc ông học tiếng Pháp như sau: "Ông xuống Nam Định học với ông Nguyễn Bá Học, gặp thầy hay, ông thấy sức học mình tấn tới, nhưng rủi mới học được ba tháng ông lại bị bắt giải về Quảng. Người ta kết án ông (ông Phan Thành Tài người Quảng Nam (Bảo An tây) trước làm phán toà sau về dạy học can vào việc vua Duy Tân, bị xử tử). Ba năm trong lao, ông tìm cách đưa sách vào học như Lecture courante, Manuel v.v... Đọc sách chỗ nào không hiểu ông lại lật tự vị ra tra. Hồi ấy, ông nghe nói có thày Ưng Điển dạy giỏi, ông viết thư nhờ thày Điển ra bài cho. Làm đâu được vài bài vừa bị ông án Trần Văn Thống khám xét thâu hết sách Tây ta, bút, giấy và nói một câu nghe rất ý vị: "Các anh còn học làm gì nữa vì có ai cho các anh thi nữa mà học!" Mãn tù ông ra Huế xin học trường dòng (...) ông vô học đứng chót đội sổ trong hai tháng qua tháng thứ ba đến kỳ hạch ông trở nên đứng đầu. Gặp đại tang, ông thôi học, về quê mở lớp dạy chữ Nho và quốc ngữ. Hai năm sau có nghị định bỏ thi, ông thôi dạy, bảo học trò: "Dạy các anh cho giỏi chữ Nho tôi vẫn dạy được, nhưng bây giờ các anh học giỏi ra chẳng làm gì được hãy học chữ Tây đi". Thôi dạy, ông lại cắp sách đến trường học thầy Lê Hiển, ông cùng học với học trò của ông. Qua năm sau, ông Nguyễn Bá Trác giới thiệu ông vào làm Nam Phong. Ông bước vào nghề báo từ lúc ấy (1918) viết được một năm, ông xuống Hải Phòng làm thơ ký cho Bạch Thái Bưởi. Đơn từ bằng chữ Tây ngăn ngắn ông có thể xem được và viết được. Thôi làm thơ ký, ông lại vào Nam viết cho Lục Tỉnh Tân Văn. Làm được ít lâu, ông viết một bài kịch liệt quá, người ta buộc ông thôi, ông lại ra Bắc làm cho hội Tin Lành. Ông chuyên dịch Kinh Thánh chữ Nho ra quốc ngữ. (...). Ông sóng Kinh thánh Tây với Kinh thánh Tàu rồi dịch, chấm câu rất rành mạch. Làm được một năm ông lại thôi, vào Nam kiếm việc" (Phan Thị Nga, Lối tự học của những bậc đàn anh nước ta, Hà Nội báo, số 10, 11/3/1936, Thanh Lãng soạn, tài liệu đánh máy của Tạ Trọng Hiệp). Từ 1911 đến 1917, Phan Khôi tìm cách thoát khỏi bị quản thúc ở làng sau khi ra tù: "Ra tù từ năm 1911, cho đến năm 1917, chẳng có cơ hội nào cho mình vượt khỏi cổng làng. Điều ấy, tôi tự lấy làm uất ức đã đành, mà tiên quân tôi, người lại còn lo cho tôi hơn nữa. Muốn ra đi, cái chí của tôi ở chỗ khác; nhưng thầy tôi thì chỉ mong làm sao cho tôi có đường xoay xở hầu mau thoát khỏi cái lốt tù. Vậy mà năm 1918 ra Hà Nội làm Nam Phong tạp chí nửa chừng lại bỏ mà về" (Bạch Thái Công ty thơ ký viên- một tự truyện của Phan Khôi, Dân Báo, Sài gòn, số 201, số Tết, 1940, tài liệu của Lại Nguyên Ân). Trong thời gian này, Phan Khôi vẫn liên lạc với những hoạt động yêu nước. Phan Thành Tài, thầy dậy Pháp văn của ông, tham dự vào cuộc khởi nghiã Duy Tân, 1916, và bị tử hình; Phan Khôi cũng được Thái Phiên rủ vào, nhưng ông từ chối. Vì đã lựa chọn con đường văn hoá? Vì không tin ở khả năng những người cầm đầu? Hay vì sự cấm đoán của cha? (Nguyễn Công Hoan sẽ vin vào cớ Phan từ chối Thái Phiên để buộc tội Phan làm chỉ điểm cho Tây). Đến năm 1918, được Nguyễn Bá Trác mời vào Nam Phong, cơ hội tốt để thoát ly gia đình và bước vào nghề cầm bút. Nhưng chỉ được hơn một năm. Bỏ Nam Phong vào Nam làm báo, Phan Khôi lại gặp khó khăn với Lục Tỉnh Tân Văn: "Năm 1919 vào Sàigòn, trước làm cho Quốc dân diễn đàn, sau làm cho Lục tỉnh tân văn, không bao lâu bị giải chức. Những lúc ấy, về ở nhà, tôi đôi khi cũng nghĩ đến sự mình mà ân hận: Té ta tôi chẳng những là thằng người không biết chiều đời mà còn là thằng con không biết chiều cha. Ở Sàigòn về nhà đầu mùa thu năm 1919, nằm khoèo cho đến mùa xuân năm sau, tôi thấy chán sự đeo đuổi theo đời, nhưng còn thấy chán hơn nữa là cái cảnh phẳng lỳ với vợ với con. Ấy thế mà mỗi khi bẩm mạng cùng thầy tôi xin lại đi nữa, thì người một hai ngăn trở không cho, lấy cớ rằng vận hạn của tôi còn xấu lắm, dẫu có đi cũng chưa làm gì được. Tôi biết làm sao có được tự do như [...] đây. Xin phép mà không được là phải chịu. Suốt một mùa đông tôi ngày nào cũng phải nốc rượu và thường thường ban đêm trốn đi đánh cờ đánh kiệu ờ nhà hàng xóm" (Bạch Thái Công ty thơ ký viên). Những dòng tâm sự trên đây nói rõ nỗi khổ tâm của ông trên đường lập thân. Tháng 3/1920, một cơ hội nữa, giúp Phan Khôi thoát ly gia đình lần thứ nhì: Người em họ là Phan Hạnh (em Phan Thanh) chết tại Thanh Hoá, Phan được chú ủy thác ra Thanh Hoá lo liệu; ông đưa hành lý của người đã khuất ra Hà Nội, rồi xuống Hải Phòng lấy tàu về Trung. Nhưng tại đây, tình cờ kiếm được việc làm thư ký cho Bạch Thái Bưởi, lương tháng 50 đồng. Làm 8 tháng (1/5/1920- 31/12/1920), Phan xin nghỉ vì điều kiện làm việc quá vất vả.